Color model là một
hệ thống giúp chúng ta xác định và mô tả màu sắc bằng các. Có nhiều loại color
model sử dụng các hệ thống giá trị toán học khác nhau để biểu diễn màu. Hầu
hết các mô hình màu thường sử dụng kết hợp ba hoặc bốn giá trị tương ứng với các
thành phần màu.
Mô hình màu CMYK
Mô hình màu CMYK, được sử
dụng trong in ấn, sử dụng các thành phần lục lam (C), đỏ tươi (M), vàng (Y) và
đen (K) để xác định màu. Giá trị cho các thành phần này nằm trong khoảng từ 0 đến
100 và đại diện cho tỷ lệ phần trăm.
CMYK được xem là mô hình màu
trừ (subtractive color models), nghĩa là khi màu được thêm vào một bề mặt
sẽ làm “giảm trừ" độ sáng từ bề mặt. Khi giá trị của mỗi thành phần màu
(C,M,Y) là 100, màu thu được là màu đen. Khi giá trị của mỗi thành phần bằng 0,
không có màu nào được thêm vào bề mặt, do đó bề mặt sẽ giữ nguyên màu trắng. Màu
đen là kết quả của việc kết hợp ba màu CMY ở cường độ cao nhất của chúng. Nhưng
thực tế, màu đen (K) được bao gồm trong mô hình màu cho mục đích in vì mực đen
trung tính hơn và đậm hơn so với việc trộn các lượng C, M và Y bằng nhau. Mực
đen tạo ra kết quả sắc nét hơn, đặc biệt đối với văn bản in. Ngoài ra, mực đen
thường rẻ hơn so với sử dụng mực màu.
(Nguồn:
http://product.corel.com/)
Mô hình màu RGB
Mô hình màu RGB sử dụng
các thành phần đỏ (R), lục (G) và lam (B) để xác định lượng ánh sáng đỏ, lục và
lam trong một màu nhất định. Trong hình ảnh 24 bit, mỗi thành phần được biểu thị
bằng một số từ 0 đến 255. Trong hình ảnh có tốc độ bit cao hơn, chẳng hạn như
hình ảnh 48 bit, phạm vi giá trị sẽ lớn hơn. Sự kết hợp của các thành phần này
xác định một màu duy nhất.
Mô hình màu RGB được xem là
mô hình màu cộng (additive color
models), vì màu được tạo ra từ ánh
sáng truyền qua. Trong RGB, ánh sáng đỏ, xanh dương và xanh lục được pha trộn
theo nhiều cách khác nhau để tái tạo dải màu rộng. Khi các ánh sáng đỏ, xanh
dương và xanh lục được kết hợp ở cường độ tối đa, mắt sẽ cảm nhận được màu thu
được là màu trắng. Về lý thuyết, các màu vẫn là đỏ, lục và lam, nhưng các pixel
trên màn hình quá gần nhau để mắt có thể phân biệt được ba màu. Khi giá trị của
mỗi thành phần bằng 0, nghĩa là không có ánh sáng, mắt cảm nhận màu đen. Màu trắng
là kết quả của việc kết hợp ba màu RGB ở cường độ tối đa của chúng.
(Nguồn:
: http://product.corel.com/ )
Mô hình màu HSB
Mô hình màu HSB sử dụng
màu sắc (H - Hue), độ bão hòa (S - saturation) và độ sáng (B - brightness) làm các thành phần để xác định
màu. HSB còn được gọi là HSV (hue -saturation - value). Hue mô tả sắc tố của một
màu và được biểu thị bằng độ để biểu thị vị trí trên bánh xe màu tiêu chuẩn. Ví
dụ: màu đỏ là 0 độ, màu vàng là 60 độ, màu lục là 120 độ, màu lục lam là 180 độ,
màu lam là 240 độ và màu đỏ tươi là 300 độ. Saturation mô tả độ sống động
hoặc độ mờ của một màu. Giá trị của độ bão hòa nằm trong khoảng từ 0 đến 100 và
biểu thị tỷ lệ phần trăm (giá trị càng cao, màu càng sống động). Brightness
mô tả lượng màu trắng trong màu. Giống như giá trị bão hòa, giá trị độ sáng nằm
trong khoảng từ 0 đến 100 và biểu thị tỷ lệ phần trăm (giá trị càng cao, màu
càng sáng).
(Nguồn: : http://product.corel.com/)
Tài liệu tham khảo
[3].
https://www.geeksforgeeks.org/difference-between-rgb-cmyk-hsv-and-yiq-color-models/
[4].
https://www.colorsexplained.com/color-models/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét