Thứ Tư, 17 tháng 9, 2025

Ecological economics

Ecological economics 

Ecological economics (Kinh tế học sinh thái) là một nhánh liên ngành của khoa học kinh tế kết hợp chặt chẽ với sinh thái học, nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái tự nhiên.


(Nguồn: https://www.linkedin.com/pulse/ecological-economics-everything-you-need-know-imvelo-ltd- )


(Nguồn: Internet)


Khác với kinh tế học môi trường (environmental economics) – vốn thường xem môi trường như một phần ngoại tác trong hoạt động kinh tế – kinh tế học sinh thái coi nền kinh tế là một hệ thống con (subsystem) nằm trong hệ sinh thái toàn cầu hữu hạn.


Những nguyên lý cơ bản của Kinh tế học sinh thái

  • Nền kinh tế là một hệ thống con của hệ sinh thái

Khác với kinh tế học truyền thống thường xem nền kinh tế như một hệ thống “độc lập”, kinh tế học sinh thái khẳng định ền kinh tế nằm trong lòng hệ sinh thái Trái đất và phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên thiên nhiên. Các dòng năng lượng, vật chất, tài nguyên sinh học chảy từ môi trường sang kinh tế, sau đó trở lại môi trường dưới dạng chất thải. Do đó, mọi hoạt động kinh tế phải được nhìn nhận trong giới hạn sinh thái.

  • Giới hạn tăng trưởng (Limits to growth)

Kinh tế học sinh thái nhấn mạnh rằng tăng trưởng vật chất vô hạn là bất khả thi trên một hành tinh hữu hạn. Điều này dựa trên nguyên lý nhiệt động lực học thứ hai (entropy): việc sử dụng năng lượng và vật chất luôn tạo ra hao phí, làm suy giảm khả năng tái tạo của môi trường. Vì thế, thay vì chạy theo tăng trưởng GDP, cần hướng đến phát triển chất lượng và ổn định cân bằng lâu dài (steady state).

  • Tầm quan trọng của vốn tự nhiên

Vốn tự nhiên (natural capital) gồm: đất đai, rừng, nước, đa dạng sinh học, khí hậu ổn định… Nhiều loại vốn tự nhiên không thể thay thế bằng vốn nhân tạo (ví dụ: tầng ozone, hệ sinh thái rừng ngập mặn, chu trình khí hậu). Điều này dẫn đến khái niệm “strong sustainability”: bảo tồn vốn tự nhiên ở mức tối thiểu để duy trì sự sống và phát triển bền vững.

  • Công bằng liên thế hệ và nội thế hệ

Kinh tế học sinh thái gắn phát triển với công bằng xã hội. Công bằng trong nội thế hệ mang ý nghĩa là phân phối công bằng tài nguyên và lợi ích trong cùng một thế hệ, giảm bất bình đẳng. Cân bằng liên thế hệ mang ý nghĩa đảm bảo thế hệ tương lai vẫn còn đủ vốn tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu cơ bản. Đây là nền tảng cho khái niệm phát triển bền vững.


  • Đo lường phúc lợi vượt ra ngoài GDP

Thay vì đo lường sự thịnh vượng bằng GDP, vốn chỉ đo lường sản lượng kinh tế, không phản ánh phúc lợi xã hội hay sức khỏe sinh thái. Kinh tế học sinh thái đề xuất các chỉ số thay thế như Genuine Progress Indicator (GPI), Ecological Footprint, Human Development Index (HDI) cải tiến, Happy Planet Index (HPI)... Những chỉ số này tính đến chi phí môi trường, công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống.


  • Cách tiếp cận liên ngành và hệ thống

Kinh tế học sinh thái kết hợp Khoa học tự nhiên (sinh thái, khí hậu, năng lượng) với Khoa học xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội học, triết học). Cách tiếp cận này giúp phân tích nền kinh tế như một hệ thống phức hợp (complex system), không thể giải quyết chỉ bằng mô hình thị trường truyền thống.

Nói tóm lại, ecological economics không chỉ nghiên cứu tác động môi trường trong kinh tế mà còn tái định nghĩa bản chất của nền kinh tế, đặt nó trong bối cảnh hệ sinh thái hữu hạn và hướng đến một xã hội công bằng, bền vững hơn.

Tài liệu tham khảo

  • https://insights.som.yale.edu/insights/what-is-ecological-economics
  • https://www.linkedin.com/pulse/ecological-economics-everything-you-need-know-imvelo-ltd-
  • https://www.sciencedirect.com/topics/earth-and-planetary-sciences/ecological-economics


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Shift-share analysis

Phân tích Shift-share (SSA - Shift-Share Analysis) là một phương pháp kinh tế lượng được sử dụng rộng rãi trong kinh tế học khu vực và lao đ...